Thực đơn
Cửu Chân Quận Cửu Chân và huyện Cửu Chân từ sau thời thuộc nhà Đông NgôQuận Cửu Chân thuộc nhà Đông Ngô thời Tam quốc, rồi Nhà Tấn, tiếp đến là Nam Bắc triều (210-581).
Nhà Đông Ngô tách quận Cửu Chân thành hai quận Cửu Chân (Thanh Hóa và một phần Ninh Bình) và quận Cửu Đức[3][4].
Thời nhà Tấn, quận Cửu Chân gồm 7 huyện[3]: Tư Phố, Di Phong, Tân Ngô, Kiến Sơ, Thường Lạc, Phù Lạc, Tùng Nguyên. Quận Cửu Đức gồm 8 huyện[3]: Cửu Đức, Hàm Hoan, Nam Lăng, Dương Toại, Phù Linh, Khúc Tư, Phố Dương, Đô Hào.
Thời Lưu Tống, Cửu Chân gồm các huyện: Di Phong (đổi tên từ Cư Phong thời Đông Ngô), Tư Phố, Tùng Nguyên[5], Cao An[6], Kiến Sơ[7], Thường Lạc, Quân An[5], Vũ Ninh[5], Đô Lung, Ninh Di, Tân Ngô.[6] Quận Cửu Đức thời Lưu Tống tách thành 11 huyện[4]: Phố Dương, Cửu Đức, Hàm Hoan, Đô Nhân, Tây An, Nam Lăng, Việt Thường, Tống Thái, Tống Xương, Hi Bình.
Thời Nam Tề, quận Cửu Chân gồm 10 huyện: Di Phong, Tư Phố, Tùng Nguyên, Cao An, Kiến Sơ, Thường Lạc, Tân Ngô, Quân An, Cát Bàng, Vũ Ninh[8]. Quận Cửu Đức gồm 7 huyện: Cửu Đức, Hàm Hoan, Phố Dương, Nam Lăng, Đô Hào, Việt Thường, Tây An[8].
Thời nhà Lương, quận Cửu Chân thuộc về Ái Châu[9].
Thời thuộc Tùy (581-617), quận Cửu Chân gồm 7 huyện với 16.135 hộ[9]: Cửu Chân, Di Phong, Tư Phố, Long An (cũ là Cao An), Quân An, An Thuận (cũ là Thường Lạc), Nhật Nam.
Thời nhà Đường, năm Vũ Đức thứ 5 (622) thời Đường Cao Tổ, lập Ái Châu thuộc Giao Châu tổng quản phủ, bao gồm 4 huyện: Cửu Chân, Tùng Nguyên, Dương Sơn, An Thuận[10]. Trong vùng đất cũ của quận Cửu Chân thời Tùy còn lập ra 7 châu là Tích Châu, Thuận Châu, An Châu, Vĩnh Châu, Tư Châu, Tiền Chân Châu, Sơn Châu[10]. Sau đó đổi tên Vĩnh Châu thành Đô Châu. Năm Vũ Đức thứ 9 (626), đổi tên Tích châu thành Nam Lăng châu. Năm Trinh Quan thứ nhất (627) thời Đường Thái Tông, phế bỏ Đô Châu và nhập vào Tiền Chân Châu. Cùng năm, phế bỏ Tiền Chân Châu, nhập chung vào Nam Lăng Châu. Sau lại phế bỏ An Châu thành huyện Long An, phế bỏ Sơn Châu thành huyện Kiến Sơ. Sau đó bỏ 2 huyện Dương Sơn, An Thuận và nhập vào huyện Cửu Chân. Đổi tên Nam Lăng Châu thành Chân Châu. Năm Trinh Quan thứ 8 (634), bỏ huyện Kiến Sơ và nhập vào huyện Long An. Năm Trinh Quan thứ 9 (635), bỏ huyện Tùng Nguyên và nhập vào huyện Cửu Chân. Năm thứ 10 (636), bỏ Chân Châu, lấy 4 huyện Tư Phố, Quân An, Nhật Nam, Di Phong cho thuộc vào Ái Châu. Năm Thiên Bảo thứ 1 (742) thời Đường Huyền Tông, đổi lại thành quận Cửu Chân. Năm Càn Nguyên thứ 1 (758) thời Đường Túc Tông lại phục hồi tên gọi Ái Châu[10]. Theo Cựu Đường thư, thời kỳ thuộc niên hiệu Thiên Bảo thì quận Cửu Chân có 6 huyện và 14.700 hộ dân[10].
Như vậy, cuối thời Đường thì Ái Châu bao gồm 6 huyện: Cửu Chân, An Thuận, Sùng Bình, Quân Ninh, Nhật Nam, Vô Biên[10].
Thực đơn
Cửu Chân Quận Cửu Chân và huyện Cửu Chân từ sau thời thuộc nhà Đông NgôLiên quan
Cửu Huyền Thất Tổ Cửu Đỉnh (nhà Nguyễn) Cửu vĩ hồ Cửu Long Trại Thành Cửu châu: Thiên Không thành Cửu vị thần công Cửu Châu (Trung Quốc) Cửu Chân Cửu Thiên Huyền Nữ Cửu Bả ĐaoTài liệu tham khảo
WikiPedia: Cửu Chân http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%8D%97%E9%BD%8A%E... http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%AE%8B%E6%9B%B8/%... http://zh.wikisource.org/wiki/%E5%BE%8C%E6%BC%A2%E... http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%99%89%E6%9B%B8/%... http://zh.wikisource.org/wiki/%E6%BC%A2%E6%9B%B8/%... http://zh.wikisource.org/wiki/%E8%88%8A%E5%94%90%E... http://zh.wikisource.org/wiki/%E9%9A%8B%E6%9B%B8/%...